TRỊNH CÔNG SƠN VÀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Đây là chương IV trong cuốn sách mang tên Trịnh Công Sơn Vết Chân Dã Tràng của tác giả Ban Mai. Chính phần gây tranh cãi này đã khiến cuốn sách bị UBND tỉnh Bình Định đình chỉ phát hành.

“Với tôi, tôi đồng cảm cùng suy nghĩ của Trịnh Công Sơn, bởi vì đứng trên góc nhìn dân tộc, cái chết nào cũng đau xót như nhau. Vì tất cả đều chung giòng máu Lạc Hồng.” Với người mẹ, cái chết của bất cứ đứa con nào cũng đều đau đớn như nhau.

Sự thật thì vẫn vậy nhưng nói lên sự thật như thế nào thì có nhiều cách khác nhau. Ban Mai đã chọn cách bày tỏ không phù hợp với quan điểm của những người nắn “dòng chảy” chính. Vậy thôi!

——————-

Chương IV. TRỊNH CÔNG SƠN VÀ CHIẾN TRANH VIỆT NAM

Mở đầu tập Ca khúc da vàng viết năm 1967, Trịnh Công Sơn bày tỏ nỗi đau thống thiết: “Tất cả đã bể, đã vỡ toang. Tiếng thét đã chìm xuống biển thành tiếng nói trầm tư, thành lời kêu uất về thân thế Việt Nam. Tiếng nói vang lên từ những hố bom đào lên cùng khắp. Ơi những bạn bè thân yêu đã chết từ đỉnh cao hay vực thẳm. Con người đã hóa thân làm vết thương. Cái chết hóa thân làm biểu tượng vô nghĩa. Đã biến hình đổi dạng từ những cơn hiểm họa cay nghiệt nhất của nhân loại. Lìa cha mẹ, anh em, bằng hữu yêu dấu vô cùng. Hãy kết hỏa châu làm đèn đãi ngộ quỷ dữ. Đốt đuốc cho người điên ấm phố mùa đông. Cả một hành trình hùng vĩ của giống nòi từ miền Triết Giang đổ về bây giờ như thế đó. Hỡi người yêu da vàng của tôi hãy duỗi tay thật dài về phía hố thẳm vốc lấy những hạt đất mềm mỏng đó mà hôn. Tôi sẽ làm người tiều phu đi nhặt từng cánh tay, bàn chân, từng đốt xương, sọ người vung vãi khắp nơi về làm củi đốt sáng cho đêm tìm lại dấu vết của một hành tinh Việt Nam da vàng bặt tăm. Ám khí dày đặc, làm sao thấy rõ mặt nhau. Hãy thử bắt đầu bằng tiếng hát như ca dao của tổ tiên ta ngày xưa đó”. (“Da vàng ca khúc” Trịnh Công Sơn) [53]

Trong ca khúc Gia tài của mẹ sáng tác năm 1965, Trịnh Công Sơn cho rằng đây là cuộc chiến tranh nội chiến.

Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn.

(Gia tài của mẹ – 1965)

Chính quan điểm này đã làm cho chính quyền Miền Bắc e ngại ông. Bởi vậy, trong giai đoạn đầu của thời hậu chiến, có người quá khích ở chiến khu đã tuyên bố khi về Sài Gòn sẽ “xử tử” Trịnh Công Sơn (2). Cho đến ngày nay, quan điểm về tên gọi cuộc chiến vẫn là điều tranh cãi. Với tôi, tôi đồng cảm cùng suy nghĩ của Trịnh Công Sơn, bởi vì đứng trên góc nhìn dân tộc, cái chết nào cũng đau xót như nhau. Vì tất cả đều chung giòng máu Lạc Hồng(3). Đó chính là bi kịch của người dân Việt. Với trái tim nhạy cảm và nhân ái vô cùng, Trịnh Công Sơn đã nhận ra điều vô lý ấy. Trong bài nói chuyện Trịnh Công Sơn vì hòa bình và tình yêu do Hội Văn hóa Trịnh Công Sơn tổ chức tại Paris đêm 3-5-2003, giáo sư Cao Huy Thuần đặt câu hỏi: “Có cái gì nổi bật trong nhạc chống chiến tranh của Trịnh Công Sơn?” và khẳng định: “Chẳng có gì ngoài chữ tình”. [8] Đúng, nhạc chiến tranh của ông bắt nguồn từ tình yêu thương, nó là những bài tự tình dân tộc, ông nói hộ cho dân tộc thân phận khổ ải của kiếp người trong chiến tranh, là tiếng kêu thương tuyệt vọng của người dân trong cảnh thịt xương tan nát.

Ôi da vàng Việt Nam vỡ nát
Xương thịt đó thiêng liêng vô cùng.
Khắp đất nước tràn đầy xác người:
Xác người nằm quanh đây, trong mưa lạnh này
Bên xác người già yếu, có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi, dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy,
bên những vồng ngô khoai.

(Bài ca dành cho những xác người – 1968)

Là một trí thức, ông ý thức được thân phận nhược tiểu của đất nước mình trong bối cảnh tranh giành ảnh hưởng của các thế lực quốc tế. Cảm nhận được nỗi đau mất mát ấy, cho nên dù đang ở trong cái thế chống đối nhau, tự trong thâm tâm của người dân Việt, họ vẫn thấy yêu nhau, gần nhau:

Tôi muốn yêu anh, yêu Việt Nam
Ngày gió lớn, tôi đi môi gọi thầm,
Gọi tên anh, tên Việt Nam,
Gần nhau trong tiếng nói da vàng.

(Tình ca của người mất trí – 1967)

Cái bi thảm nhất là ở chỗ: cùng là người Việt Nam, nhưng người Việt lại bắn giết người Việt. Trong thực tế cuộc đời, có khi họ là anh em, cha con, là người yêu của nhau, nhưng vì khác chiến tuyến, nên nhìn nhau xa lạ. Khi người Việt đó: Bỏ xác trôi sông, chết ngoài ruộng đồng / Chết rừng mịt mùng, chết lạnh lùng / Mình cháy như than, chết cong queo / Chết vào lòng đèo, chết cạnh gầm cầu / Chết nghẹn ngào, mình không manh áo (Tình ca của người mất trí – 1967).

Trịnh Công Sơn cho rằng, đây là cái chết do một trận địa chấn, một cơn hồng thủy. Một cái chết không nằm trong dự tính của họ. Họ bị những cơn hiểm hoạ cay nghiệt nhất của nhân loại, vô hình xô đẩy nhau vào mâu thuẫn, hận thù. Nhưng trong sâu xa nơi tâm hồn, họ không thấy sự mâu thuẫn, hận thù mà chỉ thấy một màu da thơm mùa lúa chín, thấy yêu nhau, thấy gần nhau trong tiếng nói Việt Nam [23].

Huế Sài Gòn Hà Nội
Hai mươi năm tiếng khóc lầm than
Huế Sài Gòn Hà Nội trong ta đau trái tim
Việt Nam.

(Huế – Sài Gòn – Hà Nội – 1969)

Như vậy thì quả dân tộc ta đang gặp một cơn đại nạn. Và triệu người đã chết bất đắc kỳ tử, chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh phát xuất từ đâu tới, chớ không phải từ trong lòng anh em Việt Nam, mà ngày nay có những quan điểm cho rằng đó là cuộc chiến tranh “uỷ nhiệm” của các nước lớn.

Hai mươi năm là xác người Việt nằm
Làm sao ta giết hết những đứa con Việt Nam?
Xưa ta không thù hận
Vì đâu tay ta vấy máu?

(Tuổi trẻ Việt Nam – 1969)

Nói như Bửu Ý “… Chiến tranh diễn ra không phải ở chiến trường, không phải do người cầm súng, nó diễn ra ở bàn tròn, ở trong lòng người, ở trong đầu óc những con người mua bán chiến tranh… Giữa một nền trời như vậy, thân phận con người là một vấn nạn, ta nên nói ngay: đây là một chủ đề tư tưởng, nếu không muốn nói là triết lý…”.[6] Theo Lê Trương, những bài ca nổi tiếng trong giai đoạn này như Tình ca của người mất trí, Ca dao mẹ, Gia tài của mẹ, Đi tìm quê hương là những bài hát có ca từ rất buồn thảm, giai điệu blues dìu dặt, thở than, kể lể như tiếng khóc của một người đàn bà trong góc phòng tối, rồi bỗng nhiên nức nở, gào thét thảm thiết. Ông nói hộ những gì trong tâm hồn họ bị nổ ra vì quá đau khổ, u uất, vì không thể đè nén lại được nữa. Những ước mơ từ lâu họ không được quyền nói tới, phải được chôn sâu vào trong lòng, nay bỗng bùng lên trong tiếng hát của người mất trí. [23]

Không chỉ riêng Trịnh Công Sơn, hầu như người dân miền Nam nào cũng sống trong bi kịch ấy. Để minh chứng cho một thời đại đầy biến động này, chúng ta hãy đọc bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn khi viết về bộ đội miền Bắc với một giọng thơ ngất ngưởng:

Kẻ thù ta ơi, những đứa xăm mình
Ăn muối đá và điên say chiến đấu
Ta vốn hiền khô, ta là lính cậu
Đi hành quân, rượu đế vẫn mang theo
Mang trong đầu những ý nghĩ trong veo
Xem chiến cuộc như tai trời ách nước
Ta bắn trúng ngươi, vì ngươi bạc phước
Chiến tranh này cũng chỉ một trò chơi
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi
Suy nghĩ làm gì lao tâm khổ trí
Lũ chúng ta sống một đời vô vị
Nên chọn rừng sâu núi cả đánh nhau”…

(Chiến tranh Việt Nam và tôi – Nguyễn Bắc Sơn) [62]

Những đứa xăm mình”, những con người ấy cũng một dòng máu như ta thôi. Trong lúc người lính Cộng hòa đã nhận ra cuộc chiến này “cũng chỉ một trò chơi” thì… phần đông “Kẻ thù ta ơi” đều “điên say chiến đấu”, đều tin chắc vào chính nghĩa của cuộc chiến, đều hô hào cổ võ một cách trịnh trọng. “Kẻ thù ta ơi” là một thế hệ tươi sáng, họ là những học sinh, sinh viên đầy nhiệt huyết, được đào tạo từ nhỏ về lòng yêu nước, yêu nước ở đây đồng nghĩa với ý thức về nhiệm vụ và sứ mệnh. Yêu nước ở đây đã gắn liền với một thể chế. “Nhiệm vụ của ta là phải đấu tranh cho lẽ phải. Mà đã đấu tranh thì phải bỏ sức lực, phải suy nghĩ và phải hy sinh những quyền lợi cá nhân, có khi là cả cuộc đời mình, cho lẽ phải chiến thắng” (Nhật ký Đặng Thùy Trâm). [11]

Trong khi đó, ở chiến tuyến khác, trong bài Nghinh địch hành Hà Thúc Sinh viết:

Giao thừa đâu mà vội
Hãy khoan đã chú mày
Cứ đóng xa vài dặm
mà ăn uống cho say
Ta cũng người như chú
cũng nhỏ bé trong đời
có núi sông trong bụng
mà bất lực hôm nay

Vì nói thật cùng chú
Trăm năm có là bao
Binh đao sao biết được
Sinh tử ở nơi nào.

Một người lính Cộng hòa nói với một bộ đội miền Bắc như nói với anh em, và quả thật họ là anh em cùng giống “da vàng mũi tẹt” mà ra. Ta đối với chú mà nói được lời như thế vì lòng ta đã tới độ nguội lạnh, không còn gì khuấy động nổi một cơn điên say nữa. Đao to búa lớn: vô ích. Danh từ cao đẹp: vô ích. Lý tưởng thiêng liêng: vô ích. [62]

Cũng như bao người trí thức miền Nam khác, Trịnh Công Sơn đau đớn nhận ra điều ấy, những thảm cảnh mất mát mà ông thấy trong trái tim của ông.

Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người
Tôi đã thấy, tôi đã thấy
Những hố hầm đã chôn vùi thân xác anh em.

(Hát trên những xác người – 1968)

Trịnh Công Sơn viết: “Ðã có điều gì không thật suốt hai mươi năm nay. Một lầm lỡ đã lên đường và phải đi cho trót con đường máu xương. Như một mũi tên vô tri bỗng lỗi thời trong một nhiệm kỳ vô định. Chúng ta, dù muốn dù không, bị biến thành những mũi tên định hướng được bắn đi từ những đồ hình huy hoàng tưởng tượng và ngắn hạn. Dân ta tàn phế hai mươi năm. Nước mắt và máu đã làm thành những con suối lớn chảy mòn tiềm lực sáng tạo. Ðến lúc chúng ta phải dừng tay và nhìn lại.

…Xin hãy dừng tay và cùng chờ nhìn một mặt trời tươi trẻ sẽ được khai sinh ở phương Ðông. Xin hãy dừng tay để mọi căn nhà Việt Nam có thể mở rộng cửa chờ đón một sớm mai hòa bình. Còn rất nhiều con đường mở ra cho tương lai chúng ta. Những con đường đưa ta về dựng lại một tổ quốc đích thực.

… Tiếng hát đã có thể cất lên để nuôi lớn ước mơ. Ta đã có sẵn một hành trang quý giá của hơn bốn nghìn năm để còn mãi bước đi trên những lộ trình mới về tương lai. Ta phải đi tới bằng con tim sứ giả mang niềm tin và lời hứa hẹn của những người đã nằm xuống. Ta phải tìm lại quê hương bằng sức sống mãnh liệt vì trong cơ thể ta đã luân lưu thêm dòng máu của anh em không còn. Quanh đây, những trường học, những bệnh viện, những đình làng, những phiên chợ, những cánh đồng sẽ được bắt đầu lại với những ngày nhân đạo, với một dân tộc nhân bản. Xin đừng bao giờ làm kẻ phản bội với một quá khứ hiển linh” (Kinh Việt Nam–1968).(4)

Bửu Chỉ nhận định: “Tắt một câu, trong dòng nhạc phản chiến của mình, Trịnh Công Sơn đã chẳng có một toan tính chính trị nào cả. Mà tất cả làm theo mệnh lệnh của con tim mình (…). Trái tim nhân ái, nhạy cảm, chỉ biết nói lên những cảm xúc nồng nhiệt của mình đối với quê hương, dân tộc, dù thiếu vắng một thái độ chính trị, nhưng trung thực. Nghĩa là tự đáy lòng mình thì mình nói”.[5]

Nhận định của Bửu Chỉ thật sâu sắc, tuy nhiên theo tôi, Trịnh Công Sơn không phải không có thái độ chính trị. Thái độ chọn lựa của ông đã thật rõ ràng. Ông thật sự không tham gia bên nào, vì đứng bên nào, ông cũng thấy trái tim mình nhói đau. Như một trò chơi, bạn bè thân của ông chia đều ở hai phía:

Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè
Ngựa hồng đã mỏi vó chết trên đồi quê hương

(Xin mặt trời ngủ yên – 1964)

Người miền Nam thấy mình trong ca khúc Cho một người nằm xuống, Trịnh Công Sơn thương tiếc Lưu Kim Cương, một Đại tá Không quân Việt Nam Cộng hòa tử nạn, là một người bạn hào hiệp của ông:

Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa về cội nguồn…
Những xót xa đành nói cùng hư không.

(Cho một người nằm xuống – 1968)

Người miền Bắc lại bắt gặp mình khi ông chia sẻ nỗi đau:

Tôi mất trong chiến tranh này
Bao nhiêu bao nhiêu nụ cười
Em từ Hà Nội có bao giờ được yên vui…

(Tôi đã mất – 1970)

Trịnh Công Sơn đau đớn khi nhìn nước Việt ly tan:

Mẹ Việt Nam ngồi
Ngày đêm tiếng cười
Rộn ràng khắp nơi
Một nước linh thiêng
Một màu da vàng
Người dân no lành
Hội hè suốt năm
…Nhưng hôm nay
Quê hương là miền Nam
Quê hương là trái sáng
Quê hương chở đầy hòm.
…Nhưng hôm nay
Quê hương là Hà Nội
Quê hương là cuộc đời
Những đứa trẻ mồ côi.

(Nhưng hôm nay – 1967)

Mùa hè đỏ lửa 1972, Trịnh Công Sơn viết: “Những thành phố và những xác chết của tháng 5/1972, một lần nữa, tôi không thể nào quên đi tiếng kêu thất thanh của đám người cùng khổ. Cuộc chiến đã không muốn ngừng, và có lẽ còn mang nhiều bộ mặt mới mẻ, thảm khốc hơn. Phải chăng những hồi chuông báo tử chưa đủ làm mềm lòng cuộc sinh sát”.(5)

Với Trịnh Công Sơn, trên xác chết anh em sự vinh quang phải giấu mặt. Không ai ca khúc khải hoàn trên thịt xương của cùng người Việt Nam.

Rồi trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975, chiến tranh chấm dứt, người ta nghe tiếng ông hát Nối vòng tay lớn trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Nhiều người miền Nam sửng sốt và thấy bị tổn thương như bị phản bội khi mà trái tim họ vốn đã tan nát khi Sài Gòn vừa thất thủ.

Giải thích hành động này ra sao?

Văn Cao mấy chục năm trời im hơi lặng tiếng, bỗng vỡ òa niềm vui với ca khúc Mùa xuân đầu tiên ở cùng thời điểm này, với những ca từ đầy chất nhân văn:

Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên…

Mùa xuân thanh bình đầu tiên của đất nước, không phải là mùa xuân hoan ca chiến thắng. Với Văn Cao, đó là mùa xuân bừng tỉnh nhận ra tính nhân bản của người Việt bị đánh mất trong chiến tranh giờ đây cần phải được đánh thức trong mỗi con người:

Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người.

(Mùa xuân đầu tiên – Văn Cao)

Phải chăng những nghệ sĩ lớn đều như vậy, như đứa trẻ chỉ biết ca lên niềm hân hoan của dân tộc trong ngày vui chung của đất nước, sau bao năm ngăn cách. Vẫn là niềm vui vượt trên mọi quan điểm chính trị.

Ở Việt Nam, cái logic tư duy của người Việt thường thấy là: không bên này là bên kia. Điều này cũng dễ hiểu vì thực tiễn lịch sử Việt Nam trong suốt nhiều thập kỷ đã đặt con người vào cách tư duy trên. Thái độ không thật sự bên nào của Trịnh Công Sơn đã khiến ông rơi vào cái nhìn nghi ngờ từ cả hai phía.

Bên Cộng Hòa có người đã cho ông là “hèn nhát”: “Trịnh Công Sơn, ông chỉ là một cây sậy, hơn thế nữa, là một cây sậy yếu hèn (cho dù có là “cây sậy biết suy nghĩ” tới đâu). Trong lớp vỏ của một cây sậy, của một thể chất yếu đuối, là một bản chất yếu đuối…Là cây sậy, ông khó mà đứng thẳng trước những trận gió ào ạt, những trận cuồng phong. Ông phải cúi rạp xuống. Là cây sậy, ông cũng tham sống sợ chết, cũng thích ăn ngon mặc đẹp, cũng run sợ trước bạo lực, cũng lo âu trước những nỗi bất an, những mối đe dọa rình rập…”. [22]

Người ta nói “ông phải cúi rạp xuống… cũng run sợ trước bạo lực…”. Thế nhưng, khi nghiên cứu cuộc đời và nội dung các sáng tác của ông (các bài viết và gần 300 ca khúc), tôi không hề bắt gặp điều đó. Thậm chí, Trịnh Công Sơn rất ý thức khi không sáng tác một ca khúc nào có ca từ ca ngợi lãnh đạo, lãnh tụ hay ca ngợi thể chế mình đang sống, dù trong thời chiến tranh hay thời hậu chiến. Đó là lòng tự trọng của người trí thức mà không phải ai cũng có được.

Bên cộng sản, những người quá khích thì “gạt ông qua bên lề” vì thiếu vắng lập trường chính trị. Trịnh Công Sơn chênh vênh giữa hai “lằn đạn”… Mặc kệ những phán xét, ông sống theo suy nghĩ của riêng mình. Tôi nghĩ rằng, thái độ kiên định lập trường sống và hoạt động nghệ thuật của riêng mình chính là bản lĩnh hiếm có của một nghệ sĩ lớn. Là một nghệ sĩ, ông dùng lời ca để hát lên thân phận con người trong chiến tranh, kêu gọi hòa bình và tình yêu thương. Hành động dấn thân với tư cách là người nghệ sĩ đấu tranh cho hòa bình, theo tôi là một chọn lựa dũng cảm, đầy tính nhân văn của một trí thức. Và hành động ở lại Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư, thở cùng nhịp thở với đất nước, đau cùng nỗi đau của dân tộc là logic của một nhân cách lớn. Chính điều ấy đã làm ông trở thành một công dân “ngoại hạng”.

Và một nghịch lý đã xảy ra: Người dân bên nào cũng đều thích hát nhạc của ông, nhưng trớ trêu thay, chính quyền bên nào cũng đều cấm đoán.

Tại sao chính quyền phải run sợ trước những lời ca phản chiến?

Vì quả thật, những gì Trịnh Công Sơn nói lên qua ca khúc của ông đều là nỗi lòng và mơ ước chung của mọi người dân nước Việt. Đó chính là tiếng nói của lương tâm con người. Năm trăm năm trước, Nguyễn Trãi cũng đã từng nói lên nỗi phẫn nộ và đau xót trước cảnh tàn hại do giặc Minh xâm lược gây ra: “…Dân chúng lưu ly, những nỗi lìa tan không kể xiết, binh sĩ đánh chác, luôn năm chết chóc đáng thương thay!”. (Biểu Cầu phong – bài 21). [33] Và trong Bình Ngô đại cáo, ông cũng nói lên thân phận con người bị giày xéo trong chiến tranh:

Nướng con đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ…
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc,
ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng,
khốn nỗi rừng sâu nước độc…
Nặng nề những nỗi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi. [17]

Lịch sử Việt Nam như chúng ta biết, là một đất nước luôn luôn bị chiến tranh giày xéo, nội chiến phân ly. Vì vậy, những người dân trong đất nước này từ bao đời phải luôn sống trong cảnh ly tan. Hết giặc nọ đến giặc kia trùng trùng bủa vây. Đại thi hào Nguyễn Du cuối thế kỷ thứ 18 đầu thế kỷ 19, cũng nói lên nỗi thống khổ của người dân trong cảnh loạn lạc: Lần phố xin miếng ăn / Cách ấy đâu được mãi / Chết lăn rãnh đến nơi / Thịt da béo cầy sói (Sở kiến hành). [17]

Trịnh Công Sơn, giữa thế kỷ 20 cũng nói lên bao cảnh thương tâm diễn ra hằng ngày trên một đất nước tang tóc chiến tranh.

Từng chuyến bay đêm, con thơ giật mình,
Hầm trú tan hoang, ôi da thịt vàng…
Hàng vạn tấn bom trút xuống đầu làng.
Cửa nhà Việt Nam cháy đỏ cuối thôn.

(Đại bác ru đêm – 1967)

Trần Hữu Thục đã rất tinh tế khi nhận ra: “Trong nỗi bi phẫn vì chiến tranh, Trịnh Công Sơn lên tiếng kêu gọi tranh đấu, đồng thời nói lên những khát khao hòa bình với những ca từ hùng hồn, mang tính đấu tranh thúc giục và đầy niềm tin về tương lai: Việt Nam ơi / Còn bao lâu những con người ngồi nhớ thương nhau / Triệu chân em / Triệu chân anh / Hỡi ba miền vùng lên cách mạng (Huế – Sài Gòn – Hà Nội -1969). Hầu hết những ca từ mạnh mẽ hô hào đó, không phải là những hô hào chém giết, mà là hô hào chiến đấu cho hòa bình”. [50]

Trịnh Công Sơn vẽ ra hình ảnh một đất nước sau chiến tranh rất huy hoàng:

Ta cùng lên đường
Đi xây lại Việt Nam
Bàn chân ta đi mau đi sâu vô tới rừng cao
Vác những cây rừng to
Về nơi đây ta xây dựng nhà
Dựng làng mới cho dân ta về
Dựng nhà mới cho miền quê.

(Dựng lại người dựng lại nhà – 1968)

Cũng theo Trần Hữu Thục, ẩn đằng sau những ca từ cho một viễn cảnh thanh bình đó, vẫn là những dòng nước mắt, là nỗi ưu tư nhân thế, là tâm trạng đớn đau cùng cực của thân phận nhỏ bé của kiếp người. “Vẫn là hạt bụi, vẫn là nỗi khắc khoải siêu hình trước cuộc nhân sinh. Chiến tranh, quê hương thân phận con người cuộn xoáy vào với nhau tạo thành một bi kịch. Rốt cuộc, thực chất cuộc đời ông là một kẻ suy ngẫm về kiếp người, một tên hát rong suốt đời lang thang, buồn bã. Chiến tranh cũng là bi kịch nhân sinh, như mọi bi kịch khác. Bởi vậy, có những lúc ông hô hào, reo ca đấu tranh cho hòa bình, thân phận ông cũng thế. Vẫn là một thân tượng buồn!” [50]

Vẫn là:

Trên đời người trổ nhánh hoang vu
Trên ngày đi mọc cành lá mù
Những tim đời đập lời hoang phế.
… Dưới chân ngày cỏ xót xa đưa.

(Cỏ xót xa đưa – 1969)

Có lẽ từ lần đầu tiên đặt bút viết, Trịnh Công Sơn đã nghiệm ra được chân lý riêng của mình: “Cái khả năng to lớn sau cùng của ca khúc là mang đến cảm thông giữa mọi người bằng tiếng hát. Đó là sứ mệnh truyền đạt những âu lo, chờ đợi của con người khi đối diện với chính mình trước cuộc sống, cũng như thông điệp tình yêu và nhân ái đến với những tâm hồn yêu chuộng hòa bình và những con tim đang bị ngộ độc bởi ngòi thuốc nổ”. Cuối cùng gì, thân phận ông cũng như một ngọn cỏ bên đường. Và chính ngọn cỏ bé nhỏ đó đã tạo thành một Trịnh Công Sơn khác, mang ông đi vào vĩnh cửu.

Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, thân phận da vàng của một nước nhược tiểu được Trịnh Công Sơn đẩy đến tận cùng:

Người nô lệ da vàng ngủ quên
Ngủ quên trong căn nhà nhỏ
Đèn thắp thì mờ…

(Đi tìm quê hương – 1967)

Với cái nhìn tỉnh táo, Trịnh Công Sơn đã nhận ra thân phận “nô lệ da vàng” của người Việt trong chiến tranh. Ông luôn nhắc nhở chúng ta về một dòng giống Lạc Hồng trong bối cảnh tranh giành quyền lợi của các nước lớn. Bởi vì, người Việt sống nhưng không có chủ quyền trong tay, sinh mạng bị phụ thuộc vào ngoại bang, giá trị làm người bị phủ nhận, thì khác gì một nô lệ. Trịnh Công Sơn hỏi: Vậy thì tại sao lại có cảnh nội chiến? Đây là lời tố cáo:

Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu
Một trăm năm nô lệ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ, một bọn lai căng,
Gia tài của mẹ, một lũ bội tình…

(Gia tài của mẹ – 1965)

Sự xuất hiện của hai chữ lai căng trong ca từ mang nhiều ý nghĩa quan trọng. Lai căng tức là từ bỏ con người văn hóa dân tộc của mình để biến thành một người khác. Lai căng là phụ thuộc ngoại bang từ bên này hay bên kia, bằng cách này hay cách khác. Bọn lai căng đó trở thành một lũ bội tình dân tộc, vì luôn luôn đứng sát với ngoại bang để bóc lột, mưu cầu quyền lợi, hãm hại đồng bào mình.[23] Lời mẹ dặn con chớ quên màu da vàng, dặn con giữ gìn màu da vàng chính là một cách phản kháng tâm thức nô lệ, một hình thức chống lại những khuynh hướng lai căng đang đe dọa:

Dạy cho con tiếng nói thật thà
Mẹ mong con chớ quên màu da
Con chớ quên màu da nước Việt xưa
Mẹ trông con mau bước về nhà
Mẹ mong con lũ con đường xa
Ôi lũ con cùng cha quên hận thù.

(Gia tài của mẹ – 1965)

Dân tộc của ông là trăm trứng nở ra trăm con trong huyền thoại lịch sử, cùng giống Con Rồng Cháu Tiên. Dân tộc của ông là thế: là tất cả mọi người, không phân biệt Nam-Bắc, không phân biệt giai cấp. Vì sao? Vì có người mẹ nào phân biệt con? Dân tộc, bởi vậy, mang hình ảnh bà Mẹ. Bà Mẹ đó luôn ăn năn – ăn năn cả đến việc đã sinh ra con, bởi vì sinh ra con để làm gì khi chúng sống một kiếp người đọa đày, thù hận? [23]

Mẹ nhìn quê hương nghe con mình buồn
giọt lệ ăn năn
Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân.

Chiến tranh là tủi nhục của bà Mẹ, vì xương thịt nào cũng từ Mẹ mà ra, xương thịt nào cũng là Việt Nam. Cùng là đứa con của Mẹ mà thôi. [23]

* * *

Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn là thế. Có người tán thành, có người còn nghi ngại. Âu cũng là lẽ thường tình vì cách nghĩ của con người có bao giờ là như nhau. Nó luôn vận động và nhận chân lại những giá trị, lý giải lại những gì đã qua. Cuộc đời này mãi mãi là như vậy. Nhưng cho dù là gì đi nữa, theo tôi, chắc không ai không thừa nhận Ca khúc da vàng của Trịnh Công Sơn bắt nguồn từ lòng yêu thương con người. Mà cái gốc tình yêu thương của ông chịu ảnh hưởng sâu đậm triết lý “Tứ hải giai huynh đệ”, là nhân loại một nhà, vượt qua những hệ tư tưởng nhỏ bé, những hệ lụy đời thường. Ông đã đứng lên trên tất cả mọi thiên kiến chính trị để nói lên nỗi đau của người dân da vàng, của người dân nước Việt. Và phải chăng, vì viết theo “mệnh lệnh của con tim”, chứ không theo một thứ mệnh lệnh nào khác, mà người đời đã vinh danh ông là Kẻ du ca bất khuất của Việt Nam.

Ông ca tụng tình yêu thương, ông chống bạo lực và chống chiến tranh. Kêu gọi đoàn kết, xoá bỏ hận thù. Phải chăng đó là những chủ đề không chỉ có tính thời sự cấp thiết mà còn luôn luôn là vấn đề lớn của nhân loại của muôn đời.

Cho đến ngày nay, sau hơn 30 năm kết thúc chiến tranh, nhìn lại những chặng đường thăng trầm của đất nước, có lẽ đã đến lúc chúng ta dũng cảm nhìn nhận lại cuộc chiến đã qua và thân phận các ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn. Và chúng ta hãy tự hỏi: thân phận da vàng người Việt ngày nay đã thực sự thoát đời nô lệ ngoại bang chưa?

Hay vẫn còn đó nỗi niềm:
Ôi gian nan đời nước nhỏ
Sao đau thương nhiều lắm thế

(Quê hương đau nặng – 1971)

Chiến tranh hạt nhân, chiến tranh tôn giáo, chiến tranh giữa những hệ tư tưởng… nội chiến… ngay lúc này, chúng ta có thể nghe thấy tiếng bom nổ trong thành phố Baghdad, xung đột ở Palestine, khủng bố ở Thái Lan… cuộc chiến vẫn luôn chực chờ ở đâu đó và những ca từ kêu gọi hòa bình, yêu thương con người của Trịnh Công Sơn vẫn luôn mãi còn giá trị.

Tài liệu tham khảo:

[1] Anh Ngọc (2004), Nhớ thế kỷ hai mươi, NXB QĐND

[2] Báo Người Việt-Hoa Kỳ, trong bài Tiểu sử Trịnh Công Sơn viết: “Trước dây tại Sài Gòn, có người từng tuyên bố khi nắm được chính quyền sẽ xử tử Trịnh Công Sơn về tội đã gọi chiến tranh Việt Nam là “nội chiến” (trong câu hát”hai mươi năm nội chiến từng ngày”, thay vì phải gọi là”Chiến tranh chống Mỹ cứu nước”.Vì vậy, sau 30/4 Trịnh Công Sơn phải về Huế ngay khi “những người chiến khu” vào Sài Gòn…năm 1979, nguyên cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đứng ra che chở ông, đánh tiếng gọi ông về lại Sài Gòn.”

[3] Bùi Bảo Trúc (2004), Về Trịnh Công Sơn, in trong tập Một cõi Trịnh Công Sơn, NXB Thuận Hoá, tr 351-375

[4] Bùi Vĩnh Phúc (2005), Trịnh Công Sơn / Ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật, NXB Văn Mới, California, Hoa Kỳ, và một phần của chuyên luận trên http://www.tcs-home.org

[5] Bửu Chỉ (2001), Về những ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn, báo Diễn Đàn Forum, tr29, tháng 9/2001, Paris.

[6] Bửu Ý (2003), Kẻ du ca về tình yêu, quê hương và thân phận, in trong tập Trịnh Công Sơn, rơi lệ ru người, NXB Phụ Nữ.

[7] Bửu Ý (2004), Một nhạc sĩ thiên tài, NXB Trẻ.

[8] Cao Huy Thuần (2003), Nhạc chống chiến tranh của Trịnh Công Sơn, http://www.tcs-home.org

[9] Đặng Tiến (2001), Đời và nhạc Trịnh Công Sơn, http://www.tcs-home.org

[10] Đặng Tiến (2001), Trịnh Công Sơn, tiếng hát hòa bình, Tạp chí Văn Học số 10&11/2001 California, Hoa Kỳ, tr.180

[11] Đặng Thùy Trâm (2005), Nhật ký, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, tr 50-51

[12] Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2001), Văn học Việt Nam (Thế kỷ X- nửa đầu thế kỷ XVIII) NXB GD Hà Nội.

[13] Đinh Trọng Lạc (2003), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB GD.

[14] Đoàn Thị Thu Vân (1996), Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỷ X-thế kỷ XIV, NXB Văn học.

[15] Dương Viết Á (2000), Ca từ trong âm nhạc Việt Nam, Viện Âm nhạc Hà Nội.

[16] Eric Henry (2005), Phạm Duy và lịch sử Việt Nam hiện đại, in trên Talawas, tháng 11/2005

[17] Giảng văn Văn học Việt nam (2002), NXBGD.

[18] Hoài Thanh – Hoài Chân (1993), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học Hà Nội.

[19] Hoàng Phủ Ngọc Tường (2005), Trịnh Công Sơn và cây đàn lya của hoàng tử bé, NXB Trẻ.

[20] Lê Tiến Dũng (2003), Một đời người, một đời thơ, in trong tập “Thơ Xuân Diệu và những lời bình”, NXB VHTT.

[21] Lê Bá Hán (chủ biên), Lê Quang Hưng, Chu Văn Sơn (2003), Tinh hoa Thơ Mới thẩm bình và suy ngẫm, NXB GD.

[22] Lê Hữu, Ảo giác Trịnh Công Sơn, nguồn http://www.tcs-home.org

[23] Lê Trương, Phong trào da vàng ca, http://www.suutap.com

[24] Lý Hoài Thu (1997), Xuân Diệu trước Cách mạng tháng tám -1945, NXBGD.

[25] Mã Giang Lân (Tuyển chọn và biên soạn) (2003), Thơ Xuân Diệu và những lời bình, NXBVHTT.

[26] M.T. Stepaniants (2003), Triết học phương Đông. NXBKHXH.

[27] Một tài liệu khác trong băng Thúy Nga, Khánh Ly nói rằng năm 1962 Trịnh Công Sơn gặp Khánh Ly ở Đà Lạt rủ về Sài Gòn đi hát nhưng Khánh Ly không về. Mãi đến 1965 Khánh Ly mới về Sài Gòn và cùng Trịnh Công Sơn đi hát.

[28] Nguyễn Đắc Xuân (2003), Có một thời như thế, NXB Văn học.

[29] Nguyễn Duy (2004), “Ngày sau sỏi đá”, in trong Một cõi TCS, NXB Thuận Hóa, tr. 44.

[30] Nguyễn Hưng Quốc, Các lý thuyết phê bình văn học. Nguồn http://www.tienve.org

[31] Nguyễn Quang Sáng (2004), Paris, tiếng hát Trịnh Công Sơn, in trong “Một cõi TCS”, NXB Thuận Hóa, tr. 270 – 283

[32] Nguyễn Văn Dân (2003), Lý luận văn học so sánh, NXBKHQG Hà Nội.

[33] Nguyễn Trãi toàn tập (1976), NXBKHXH.

[34] Nguyễn Đăng Thục (1997), Thiền học Việt Nam, NXB Thuận Hoá.

[35] Nhạc Trịnh Công Sơn trên xứ Phù Tang. Nguồn http://www.tcs-home.org

[36] Nhiều tác giả (2004), Một cõi Trịnh Công Sơn, NXB Thuận Hóa, Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây.

[37] Nhiều tác giả (2003), Trịnh Công Sơn người hát rong qua nhiều thế hệ, NXB Trẻ.

[38] Nhớ người trong cõi (2004), trích các bài viết về Trịnh Công Sơn in trong “Một cõi TCS”, NXB Thuận Hóa, tr. 455.

[39] Phạm Bân. Tiếng Việt trong dòng Nhạc Trịnh Công Sơn, nguồn: http://suutap.com

[40] Phạm Văn Kỳ Thanh (2005), Phỏng vấn Bùi Vĩnh Phúc, TCS ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật, nguồn: in trên Talawas tháng 12/2005

[41] Phạm Văn Đỉnh, Danh muc ca từ Trịnh Công Sơn, http://www.tcs-home.org

[42] Phan Bích Hợp (2005), Bi kịch nhị nguyên và số phận con người, TC Tia Sáng điện tử 01/12/2005

[43] S.Freud, E.Fromm, A. Schopenhauer, V.Soloviev, Đỗ Lai Thúy (biên soạn) (2003), Phân tâm học và tình yêu, NXB VHTT, Hà Nội.

[44] Sâm Thương, “Thời thanh xuân Trịnh Công Sơn”, http://www.tcs-home.org.

[45] Tạ Tỵ, Trịnh Công Sơn, nguồn http://www.suutap.com

[46] Tạp chí Văn học (2001), Chuyên đề đặc biệt về Trịnh Công Sơn, tháng 10&11/2001 Garden Grove, California, Hoa Kỳ.

[47] Tạp chí Văn (2004), California, Hoa Kỳ, số 92, tháng 8/2004.

[48] Tạp chí Hợp Lưu (2001), California, Hoa Kỳ, số 59, tháng 6&7/2001.

[49] Thụy Khuê, Triết học hiện sinh. Nguồn trang web Thuy Khue.

[50] Trần Hữu Thục (2001), Một cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn, in trong Tạp chí Văn Học tháng 10&11/2001 California, Hoa Kỳ.

[51] Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2003), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXBGD Huế.

[52] Trịnh Công Sơn. Đành vậy với tình yêu, đăng trên báo Đại Đoàn Kết. Nguồn http://www.suutap.com

[53] Trịnh Công Sơn, Da vàng ca khúc, nguồn http://www.suutap.com

[54] Trịnh Công Sơn (1995), Tuyển tập những bài ca không năm tháng, NXB Âm nhạc.

[55] Trịnh Công Sơn rơi lệ ru người (2003), nxb Phụ nữ

[56] Trọng Thịnh (2005), Phạm Thiên Thư và “Ngày xưa Hoàng thị”, theo Báo điện tử Tiền phong 27/11/2005

[57] Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXBKHXN Hà Nội.

[58] Văn Cao (2004), Trịnh Công Sơn người thơ ca, in trong tập “Một cõi TCS”, NXB Thuận Hóa, tr. 17.

[59] Văn Tân (1994), Từ điển Tiếng Việt, NXBKHGD.

[60] Văn xuôi Trịnh Công Sơn (2004), Bài hát đầu tiên bài hát cuối cùng, in trong “Một cõi TCS”, NXB Thuận Hóa, tr. 469.

[61] Văn xuôi Trịnh Công Sơn (2004), Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ (trả lời phỏng vấn VCH), in trong “Một cõi TCS”, NXB Thuận Hóa.TTVHNNĐT.

[62] Võ Phiến. Tổng quan Văn học Miền Nam, nguồn http://www.tienve.org

[63] Võ Xuân Hân. “Đóa hoa vô thường” http://tcs-home.org

[64] Yoshii Michiko (1991), Luận văn cao học về nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn.

[65] Schafer, John C., (2007) :D eath, Buddhism, and existentialism in the Songs of Trịnh Công Sơn, Journal of Vietnamese Studies, 2.1, pp. 144-186


(3) Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có cái nhìn tương tự. Tham khảo: Trịnh Công Sơn cây đàn lya của Hoàng tử bé, Nxb Trẻ, 2005, tr. 62-70.

(4) Trịnh Công Sơn, Kinh Việt Nam. (suutap.com)

(5) Phụ khúc da vàng (suutap.com).

——————-

Nguồn: Tạp chí Da Mầu http://damau.org/archives/5470

Loading

Leave a Reply